CHÙA TUYÊN LINH

Chùa Tuyên Linh thuộc xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre được xây năm Tân Dậu (1861), dưới triều vua Tự Đức năm thứ 14. Lúc đầu, chùa có tên là Tiên Linh do Hòa thượng Khánh Phong trụ trì và được làm bằng tre, lá để thờ bà Sầm.

Truyền rằng “Xưa có một phụ nữ tên Sám đi hái củi bị hùm tha rồi thành tinh. Ban đêm hiện hình vào chùa nghe kinh, lễ Phật, ban ngày ẩn bóng, nhưng đôi khi cũng hiện ra ngồi trên cây đa trước cổng chùa. ” Năm Đinh Tỵ (1907) Tổ Khánh Hòa về trụ trì chùa, nghe câu chuyện hoang đường như vậy mới đối tên chùa Tiên Linh thành TUYÊN LINH.
Chùa Tuyên Linh nay ở ấp Tân Quới Đông B, xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Quang cảnh quanh chùa bây giờ đã đổi khác nhiều với dân làng đông đúc, nhà cửa san sát, thuyền bè qua lại trên rạch Tân Hương khá nhiều. Nhưng con đường vào chùa vẫn khó đi, nhất là vào ngày mưa vừa trơn vừa lầy lội. Xe ô tô không vào được tới cổng chùa mà phải đậu ở cầu xi măng bên chợ xã Minh Đức, cách Chùa Tuyên Linh khoảng 2km. Lại phải di qua một chiếc cầu gỗ chênh vênh trên rạch Tân Hương ! Dọc đường đi, cây cối vẫn còn rậm rạp như rừng. Tới nơi thấy một chiếc cổng đơn sơ để tên chùa bằng chữ Hán TUYÊN LINH Tự và đôi câu đối :

Tuyên giáo chấn hưng truyền đạo pháp,

Linh thông minh đức hiển hương danh

Vào trong khuôn viên chùa, ở ngay bên tay phải có tấm bia kỷ niệm ghi : “NƠI ĐÂY, NĂM 1927, cụ PHÓ BANG NGUYỄN SINH SẮC ĐÃ GẶP SƯ CỤ LÊ KHÁNH HÒA ĐỂ ĐÀM ĐẠO VÀ MỞ LỚP DẠY PHẬT TỰ, HỐT THUỐC GIÚP ĐỒNG BÀO NGHÈO”.

Ngôi chùa cũ thì đã bị phá hủy vì chiến cuộc và ngôi chùa hiện nay mới được xây lại năm 1983 nhưng nhỏ bé . Hòa thượng Khánh Hòa đã trụ trì tại chùa 39 năm và viên tịch ờ đây vào ngày 19-6-1947. Nói như vậy thì cũng không đúng hẳn vì Hòa thượng đã không ờ thường xuyên tại chùa mà đã đi khắp các tổ đình ở Nam Kỳ để tìm cách chấn hưng Phật giáo. Hòa thượng đã liên kết được một số các vị cao tăng, trong đó có các ngài Huệ Quang, Pháp Hải và Khánh Anh.

Năm 1923, Hòa thượng đã lập được Hội Lục hòa Liên hiệp tại chùa Long Hòa ở Trà Vinh. Năm 1928 tổ chức việc xây dựng Thích học đường và Phật học Thư xã tại chùa Linh Sơn ờ đường Douaumont Sàigòn; năm 1929 cho ấn hành Tập san Pháp Ám ; năm 1931 thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học; năm 1934 lập Phật học đường Lưỡng Xuyên tại chùa Long Phước ở Trà Vinh và cho xuất bản Tạp chí Duy Tâm. Năm 1943, Hòa thượng đã già yếu, bèn lui về chùa Vĩnh Bửu ở Bến Tre và tổ chức một Phật học đường cho ni giới. Năm 1947, ngài về chùa Tuyên Linh và viên tịch ở đó.
Năm 1951, Tăng già Giáo hội và Lục Ho Phật tử hội, đã suy tôn Hòa thượng làm Tổ của Phật giáo miền Nam. Năm 1955 Giáo hội Tăng già tỉnh Bến Tre đã quyết định tổ chức lễ Trà tỳ cho Hòa thượng tại chùa Tuyên Linh vào ngày rằm tháng ba Âm lịch.

Tháp mộ của Hòa thượng nay còn trong sân chùa, trước chánh điện, ở hai bên bia đá có đôi câu đối :

KHÁNH chúc nhân dân, kỳ tổ quốc giang sơn bất lão;

HÒA bình thế giới, nguyện Phật gia pháp hải trường xuân.

Đôi câu đối đã nói lên được tất cả tinh thần và đức tính của Tổ Khánh Hòa, suốt đời hoạt động vì đạo, vì đời, vì dân, vì nước và vì hòa bình thế giới nữa.Chùa Tuyên Linh ngày nay được mọi người biết đến cũng chính vì danh tiếng của Tổ Khánh Hòa.

Tin Cùng Chuyên Mục