CHÙA HÀM LONG

Chùa Hàm Long tọa lạc trong khu vực số nhà 18 phố Hàm Long, quận Hoàn Kiếm, TP.Hà Nội. Theo Ni Sư Thích Đàm Chính: “Chùa Hàm Long có lịch sử gần 2.000 năm tuổi. Ban đầu, ở thôn Hàm Khánh có ngôi đền thờ thần Ngô Long. Theo truyền thuyết thì thần Ngô Long là vị phụ đạo chính quốc thời Hùng Duệ Vương, có công dẹp giặc Hồ Lư ở Châu Hoan. Ngô Long từng sống ở quán Long Đầu. Sau khi ông mất, dân chúng sửa quán Long Đầu khang trang, làm thành đền Hội Khánh để thờ phụng. Đến thời Lý, Vua Lý Thái Tổ đã chính thức phong cho Ngô Long danh hiệu Long thần và theo thế đất đền Hội Khánh tựa như rồng ngậm ngọc (hàm châu long), nên cho đổi đền thành chùa Hàm Long. Chùa Hàm Long thờ Phật, đồng thời cũng thờ thần Ngô Long. Từ đó trở đi, chùa Hàm Long được mở rộng quy mô đồ sộ, kiến trúc đẹp và còn được coi là trung tâm Phật giáo lớn nhất của thành Thăng Long thế kỷ XVIII…

Chùa Hàm Long ngoài thờ Phật còn thờ thành hoàng làng: thần Ngô Long. Làng này xưa kia tên là thôn Hàm Châu, thuộc tổng Hậu Nghiêm, huyện Thọ Xương, kinh đô Thăng Long, sau đổi là thôn Hàm Khánh, thuộc tổng Thanh Nhàn. Chùa hiện nay toạ lạc ở cuối con ngõ nhỏ mở cạnh số nhà 18 phố Hàm Long, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Theo truyền thuyết thì thần Ngô Long là vị phụ đạo chính quốc thời Hùng Duệ Vương, có công dẹp giặc Hồ Lư ở Châu Hoan. Ngô Long từng sống ở quán Long Đầu. Sau khi Ngài mất, dân chúng sửa quán đó thành đền Hội Khánh để thờ phụng. Đức vua Lý Thái Tổ, khi dời đô về Thăng Long đã chú ý ngay đến ngôi đền này và chính thức phong cho Ngô Long danh hiệu Long thần. Thế đất đền Hội Khánh tựa như rồng ngậm ngọc (Hàm Châu Long), nhà vua bèn cho đổi tên thành chùa Hàm Long.

Đến thời Lê Trung hưng, có bà thái phi họ Trương, vợ Tấn Quang vương Trịnh Bính và một số người trong Trịnh tộc đã sửa lại ngôi chùa với quy mô lớn, thành một nơi “danh thắng trong 36 cõi thiền”. Công việc tiến hành trong 11 năm từ Chính Hoà 23 (1702) đến Vĩnh Thịnh 9 (1713) mới hoàn thành.

Sau khi người Pháp chiếm được Hà Nội, họ cho dựng một nhà thờ công giáo ở ngay phía nam chùa Hàm Long. Tuy vậy, vẫn luôn luôn có đông đảo Phật tử đến chùa này. Cuối năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu. Ngôi chùa nhanh chóng bị tàn phá nặng nề nhưng rồi được trùng tu ngay. Đầu thập niên 1950, hai vị hòa thượng Tố Liên (1903-1977) và Trí Hải (1906-1979) đứng ra xây thêm trường Trung Tiểu học Vạn Hạnh trong khuôn viên chùa Hàm Long, cùng với trường Tiểu học Khuông Việt tại chùa Quán Sứ, cả hai nơi đều giảng dạy theo chương trình giáo dục phổ thông.

Kiến trúc

Phần còn lại của chùa Hàm Long được xây dựng vào cuối thập niên 1940, bao gồm khu thờ tự và trường Phật học. Đó là một dãy nhà 2 tầng có kiến trúc kiểu mới với sàn mái bằng bê tông, trường chiếm một gian nền và toàn bộ tầng trệt của chùa. Còn khu thờ Phật thì ở trên tầng hai. Chùa chính được xây gạch, phần trên làm 2 tầng mái với các góc đao cong. Chính giữa bờ nóc đắp đôi rồng chầu mặt trời. Cổ diêm giữa 2 mái xếp chấn song bằng sứ, hình con tiện. Mặt ngoài đắp tên chùa bằng 3 chữ Hán “Hàm Long Tự”.

Chùa vốn có quy mô lớn, nhưng đến nay bị lấn chiếm chỉ còn phần chủ yếu ở trên gác hai của trường Tiểu học Võ Thị Sáu. Trong chùa, trên vị trí cao nhất có đặt bộ tượng Tam Thế, tiếp đến thấp dần là bộ A Di Đà tam tôn, Quan Âm chuẩn đề, toà Cửu Long, Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, Đức Ông, Thánh Tăng, Nam Tào, Bắc Đẩu. Tượng thần Ngô Long cũng được thờ chung ở đây cùng với Thập điện Diêm Vương và Bồ Tát. Các pho tượng đều có kích thước nhỏ và mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.

Cũng trên sân tầng 2 chếch về phía bên phải chùa chính còn có hai kiến trúc nhỏ là Điện Mẫu và miếu thờ thành hoàng. Điện Mẫu gồm 2 gian xây gạch, 4 mái, gian giữa thờ Tứ phủ, Tam phủ, Đức Thánh Trần và Mẫu Thượng Ngàn; gian bên thờ tổ Bồ Đề Đạt Ma và 2 vị sư Tổ của chùa đã viên tịch. Miếu thờ thành hoàng Ngô Long nằm sát tường hồi tầng 2, mặt trước treo bức cửa võng chạm rồng chầu, tứ linh, bên trong đặt long ngai, bài vị thành hoàng.

Di vật

Dấu tích cổ nhất của chùa Hàm Long là 2 tấm bia đá, giếng ngọc và 2 ngôi tháp 3 tầng, nơi lưu giữ xá lị của các nhà sư đã viên tịch. Bia nằm trên khu đất cũ của chùa, cách trường khoảng 30m. Văn bia khắc năm Giáp Ngọ Vĩnh Thịnh 10 (1714), đến thời thuộc Pháp đã được xếp hạng bởi Viện Viễn đông Bác cổ. Hai bài ký do 2 danh thần thời Lê Trung hưng là Đặng Đình Tướng và Nguyễn Quý Đức soạn thảo, một bia ghi công đức của vợ chúa Trịnh Cương góp tiền góp ruộng cúng và bia kia ghi lại việc trùng tu chùa.

Ngày 19-5-2013 tức ngày 10 tháng Tư Quý Tỵ, nhân dân phường Phan Chu Trinh đã long trọng tổ chức lễ đón nhận bằng xếp hạng di tích lịch sử nghệ thuật đi kèm các quyết định liên quan. Theo đó, hai tấm bia đá cổ của chùa Hàm Long được xếp hạng di tích quốc gia và chùa Hàm Long được xếp hạng di tích cấp thành phố.

Tin Cùng Chuyên Mục