Đạo Phật tuy được nhận thức là một tôn
giáo nhưng kỳ thực không giống phần lớn các tôn giáo khác của nhân
loại. Đạo Phật có phần triết học và khoa học của mình nhưng cũng không
phải vì thế mà được xem là một triết học hay một khoa học. Để có thể
đàm luận dễ dàng thiết tưởng chúng ta nên tìm biết qua sự liên hệ giữa
Phật giáo, triết học và khoa học.
Trong lịch sử nhân loại, tôn giáo đến
trước triết học và khoa học, và có liên hệ rất mật thiết với thần
thoại. Thần thoại là kết quả của khuynh hướng giải thích và giải quyết
của trí óc con người cổ thời về các hiện tượng trong vũ trụ. Tuy triết
học và khoa học cũng nhắm đến mục đích giải thích sự vật để làm nền
tảng cho hành động, triết học và khoa học vẫn không có được những liên
hệ chặt chẽ với thần thoại như là tôn giáo. Triết học khi chưa tách
rời ra khỏi thần học thì chưa xứng đáng được gọi là triết học mà chỉ
là một khí cụ của thần học. Thần học chỉ là để biện minh và thích nghi
cho tôn giáo vào xã hội.
Bản chất và khuynh hướng giải thích của
tôn giáo về tự nhiên giới và nhân sự giới không xa với bản chất và
khuynh hướng thần thoại làm ấy. Những gì tôn giáo nói ra đều được xem
như là chính thức dựa trên sự khai mở của thần linh và vì vậy căn bản
của tôn giáo là đức tin. Triết học cũng muốn có một cái nhìn tổng quát
như tôn giáo nhưng muốn được vô tư hơn và duy lý hơn. Nhưng đến khoa
học thì cái nhìn trở thành chi li, tuy được dựng trên thực nghiệm chắc
chắn. Đứng giữa tôn giáo và khoa học và không xây dựng trên yếu tố tín
ngưỡng, triết học muốn luôn luôn nương vào thực nghiệm khoa học để tìm
chân đứng cho vững chãi trong khi vươn cánh tới những chân trời mà
khoa học không hoặc chưa nhìn thấy được, những chân trời mà tôn giáo
tự cho là đã biết rồi. Thế nên triết học đóng vai trò trung gian, một
mặt dựa trên các phát minh khoa học bài xích những ngây thơ sai lạc
của một số các tôn giáo, nâng đỡ và khích lệ cho các tôn giáo nào mà
chủ trương phù hợp sự thực, một mặt nêu ra và thuyết minh những điều
khoa học không biết đến hoặc chưa biết đến: những điều này, tuy còn ở
trong phạm vi lý tưởng nhưng có thể là đối tượng sau này của khoa học
thực nghiệm. Và cũng vì mang sứ mạng khảo sát tín ngưỡng và hướng dẫn
phát minh, triết học được xem như là một động cơ xúc tiến cho sự gạn
lọc của tôn giáo và sự tiến bộ của khoa học.
Đạo Phật không phải là một tôn giáo theo
nghĩa những chân lý thần khải không thể kiểm điểm mà chỉ có thể tiếp
nhận bằng đức tin. Đạo Phật trước hết là những phương tiện chỉ dẫn
thực nghiệm tâm linh để khám phá thực tại. Kinh sách có giá trị như
những đồ biểu hướng dẫn và phương pháp thiền quán có giá trị như một
con tàu để đưa người hành giả tới bến bờ hiểu biết và để thực hiện sự
hiểu biết ấy trong sự sống bản thân và sự sống xã hội. Chữ budh
có nghĩa là hiểu biết do đó có chữ buddha, người hiểu biết, và
sau này chữ buddhism, con đường của sự hiểu biết. Hiểu biết ở
đây không phải là cái hiểu biết sách và kinh điển mà là bản thân của
chính thực tại hiện rõ dưới khả năng trí tuệ bát nhã (prajna) chỉ có
thể đạt đến do công phu tu tập thiền quán. Người Phật tử không khởi
hành bằng một mớ vốn liếng kiến thức siêu hình không có nền tảng thực
nghiệm, mà bằng những nhận thức được thực nghiệm bảo đảm. Người Phật
tử không bắt đầu bằng một đức tin có tính cách may rủi mà bằng một sự
cân nhắc cẩn thận những nguyên lý và những phương pháp do đạo Phật đề
nghị. Đạo Phật mời con người thí nghiệm những phương pháp của nó:
điều này chứng tỏ đạo Phật khác hẳn các tôn giáo mà trong đó ý niệm về
"theo thử" được xem như là bất tín và phạm thượng.
Theo nguyên tắc đạo Phật, một cá nhân
nào đó khi muốn bứơc vào con đường thực nghiệm, phải khảo sát những
nhận thức mà đạo Phật xem như là căn bản, rồi khi đã chấp nhận những
nhận thức ấy thì kiểm điểm lại nguyên tắc thực hành rút ra từ những
nhận thức kia. Khi đã kiểm nhận kỹ lưỡng rồi, cá nhân ấy mới bên bước
vào con đường thực nghiệm với thái độ cương quyết nhưng hết sức tỉnh
táo, khách quan. Nếu sự thực nghiệm không mang lại kết quả thì phải
bắt đầu trở lại, và nếu quả thực phương thức đề nghị không thích hợp
thì phải bỏ đi để chọn một phương thức khác.
Tuy nhiên không phải người Phật tử nào
cũng đi được con đường đó. Có những người mà vì căn cơ yếu đuối hơn
nên phải chọn một trong những con đường thi thiết của đạo Phật; chữ
thi thiết đây có nghĩa là những phương tiện thích hợp với căn tính của
những người không đủ sức một mình một ngựa xông pha trên đường thực
nghiệm. Và cũng vì vậy trong tám vạn bốn ngàn nẻo vào chân lý, có
những nẻo để dành cho đức Tin. Giáo lý Tịnh độ chẳng hạn, là một giáo
lý căn cứ trên đức Tin và thích hợp với một số người không phải nhỏ.
Và số người nhờ cửa ngõ Tịnh độ để bước lên ngưỡng cửa Thiền cũng
không phải là không đáng kể.
Tuy nhiên vì đạo Phật luôn luôn chú
trọng thực nghiệm và lý trí nên đức Tin của người Phật tử không phải
là một đức tin vô điều kiện. Theo sự tiến hóa của tâm linh, đối tượng
của niềm tin càng ngày càng thay đổi, biến chuyển để đi đến sáng tỏ.
Và khi đối tượng của tin tưởng trở thành sáng tỏ thì chủ thể tin tưởng
cũng đã trở nên vững chãi và sáng tỏ lắm rồi. Tin ở đây là một quá
trình tiến bộ.
Đạo Phật không phải là một nền triết học,
bởi vì đạo Phật không có ý định miêu tả và giải thích thực tại bằng
những hệ thống tư tưởng dựa trên căn bản suy luận và khái niệm. Đạo
Phật cho rằng trên một căn bản như thế, công việc miêu tả và giải
thích thực tại là một công việc không thể thực hiện được: chỉ có thể
bằng thực nghiệm tâm linh, diệt trừ cố chấp, vô minh và phát triển trí
tuệ bát nhã thì còn người mới trực nhận được chân lý của thực tại. Tuy
nhiên, nhận định sự cấn thiết của những đồ án hướng dẫn công cuộc thực
hiện trí tuệ bát nhã, đạo Phật thi thiết những giáo lý mới nhìn qua
thì in tuồng như là những giải quyết có tính cách triết học nhưng kỳ
thực chỉ là những phương tiện hướng dẫn, những bản đồ, những "ngón tay
chỉ mặt trăng."
Đạo Phật không phải là một khoa học vì
đạo Phật không sử dụng cùng những khí cụ của khoa học để đi đến một
cái nhìn có tính cách phân tích chi li về sự vật. Nhưng trên con đường
thực nghiệm tâm linh, đạo Phật có tinh thần vô tư và tôn trọng thực
nghiệm như khoa học. Khí cụ của Phật học là khả năng phản tỉnh, tham
thiền, trực nhận thực tại. Nói tóm lại đạo Phật không phải là tôn giáo,
không phải là triết học, không phải là khoa học nhưng trong đạo Phật
ta có thể tìm thấy cả các yếu tôn giáo, triết học và khoa học. Ngoài
các yếu tố đó còn có những tính chất đặc biệt của Phật học không tìm
thấy trong tôn giáo, triết học và khoa học.
Nói đến thực nghiệm tâm linh là nói đến
nền tảng căn bản của đạo Phật. Bởi vì đạo Phật cho rằng thiếu sự tiếp
xúc của con người và những nguyên lý mầu nhiệm của thực tại thì mọi
hình thái của sự sống phải mang tính cách khổ đau và tàn tạ (dukkha).
Thế cho nên ở thời nào thiếu chứng ngộ thiếu sự khám phá thì ở thời ấy
giáo pháp suy mạt, và sự sống nghèo khổ. Nơi những con người đạt đạo,
sức sống tràn trề rạt rào và thấm nhuần trong mọi sinh hoạt xã hội. Ở
nơi người đạt đạo, tỏa chiếu nghệ thuật linh động của sự sống, nghệ
thuật ấy soi sáng cho đường lối nhân sinh của địa phương và thời đại.
Mọi sinh hoạt xã hội cần được xây dựng trên cái nhìn bao quát và khế
hợp căn cơ của người đạt đạo. Cho nên đạo Phật không những chỉ là thực
nghiệm tâm linh mà lại còn là sự thể hiện trên cuộc sống những nguyên
lý linh động đạt tới do công trình khám phá thực tại của những thực
nghiệm ấy.
Những ai không có đủ điều kiện để làm
nhà đạt đạo thì vẫn có diễm phúc được thừa hưởng những khám phá của
nhà đạt đạo. Nhìn vào đời sống của người đạt đạo và ánh sáng chân lý
tỏa rạng nơi cuộc đời ấy, mọi người biết rằng họ có thể đặt niềm tin
nơi những khám phá kia và cùng nhau xây dựng nếp sinh hoạt của địa
phương và thời đại họ theo sự hướng dẫn của ý thức đạo đức sống động
ấy. Như thế ta thấy có hai hạng người theo đạo Phật: hạng thứ nhất,
rất ít, gồm những người tự dấn thân vào con đường khám phá, và hạng
thứ hai rất đông, thừa hưởng những khám phá ấy để xây dựng sự sống. Ta
cũng nên nhớ rằng sự khám phá phải được liên tục thực hiện bởi vì thực
tại thì linh động và xã hội thì luôn luôn biến chuyển: những khám phá
cũ có khi không còn thích hợp với xã hội mới.
Đức tin của con người nơi sự khám phá
của những người đạt đạo - trong đó có đức Phật - tuy cũng là đức tin
nhưng quả thật không giống với đức tin có tính cách rủi may của rất
nhiều tôn giáo khác. Nó được hình thành bởi nhận xét ít nhiều có tính
cách thực nghiệm, và trong đó yếu tố lý trí đóng một vai trò quan
trọng.
Để hiểu rõ thêm về bản chất của đức tin
trong đạo Phật, ta nên đọc lại đoạn này trong kinh Kalama.
Một hôm, các vị hoàng tử xứ Kalama đến
bạch Phật: "Thưa Ngài, trong khi các vị đệ tử dòng họ Thích cho rằng
giáo lý của Phật là đúng. Vậy thì các nhà truyền giáo khác cũng cho
rằng giáo lý của họ là đúng. Vậy chúng tôi biết nghe ai ?." Phật trả
lời: "Này các hoàng tử Kalama, đừng vội công nhận một điều gì dù điều
đó là điều người ta hay nói. Đừng vội công nhận một điều gì dù điều ấy
phù hợp với nội giáo. Đừng vội công nhận một điều gì dù điều đó mình
rất ưa thích. Đừng vội công nhận một điều gì dù điều đó phù hợp với
chủ trương của mình. Đừng vội công nhận một điều gì dù điều ấy do một
người có uy tín nói ra. Đừng vội công nhận một điều gì dù điều ấy được
nhiều người đáng kính trọng tuyên bố."
"Này các hoàng tử Kalama, khi nào các
ông nhận biết bằng lý trí các ông rằng một cái gì đó là bất thiện, là
đang chê trách, là bị kẻ thức giả phủ nhận, và nếu đem cái ấy ra mà
công nhận và thực hành theo thì sẽ mua lấy đau khổ và tan nát thì các
ông hãy bác bỏ nó đi."
"Và khi nào các ông nhận biết rằng lý
trí các ông rằng một cái gì đó là thiện, là không bị chê trách, là
được kẻ thức giả tán thưởng, và nếu đem cái ấy mà công nhận và thực
hành theo thì sẽ đạt tới sự an lạc và hạnh phúc thì các ông hãy tin nó
và đem nó ra thực hành."