Để có sự cảm thông, chúng tôi vâng theo
vài nguyên tắc rất giản dị. Dù cho người bạn đọc của chúng tôi là Phật
tử hay không Phật tử, chúng tôi cũng mời bạn cùng đứng trên một bình
diện mà nhận xét và trao đổi. Trước khi mong có sự cảm thông chúng ta
nên nhận định những nguyên tắc căn bản ấy để cuộc đối thoại có thể là
cuộc đối thoại chân thực giữa một con người với một con người - con
người không bị ngăn cách bởi hàng rào danh ngôn định kiến.
Tôi xin đem một thí dụ. Ai cũng nghĩ
rằng bài tôi đang viết đây là một bài viết về đạo Phật, do một người
Phật tử viết.
Trên căn bản nhận thức đó, ai cũng dễ
nghĩ rằng bài này sẽ cố nói hay cho đạo Phật, bởi không lẽ một
người Phật tử mà lại đi chê đạo Phật và khen một đạo khác hay sao ?
Chúng ta sẽ bực mình vì nhận xét đó, bởi vì chúng tôi thấy tuy nó là
một sự thật nhưng là một sự thật rất tầm thường. Khi tôi mở miệng bắt
đầu nói hay cầm bút bắt đầu viết, người bạn tôi có thể nói rằng: "Thôi
đi, tôi biết anh muốn nói gì rồi. Anh lại sắp nói với tôi đạo Phật hay
như thế này, đạo Phật cần như thế kia chứ gì. Không có cảm thông
gì hết. Mục đích của anh là để thuyết giáo cho tôi nghe để khiến tôi
có cảm tình với anh, với đạo của anh. Tôi thấy rằng một sự trao đổi
cảm thông chân thật chỉ có thể có giữa hai con người tự do. Anh thì đã
bị buộc vào đạo Phật rồi, anh không còn tự do nữa, và hễ cái gì anh
nói ra sẽ chỉ là để bênh vực cho đạo của anh."
Người bạn của tôi có lý, tôi phải công
nhận như vậy. Và anh, có lẽ anh cũng phải công nhận như vậy. Nhìn vào
cuộc đời, nhìn vào sự thật thì biết. Sự thật "tầm thường" quá khiến
chúng ta buồn bã, chán nản và có khi khinh ghét, ghê tởm nữa. Nhưng mà
chúng ta thấy phẫn uất. Không lẽ sự thật lại chỉ tầm thường như thế
thôi sao ?
Tuy nhiên, lối nhìn đó là lối nhìn chung
của mọi người căn cứ trên khuynh hướng nhận thức của lý luận hình thức.
Trong Duy Thức Học của đạo Phật, lối nhận thức ấy gọi là "biến kế sở
chấp" (vikalpa) một lề lối nhận thức đóng khung trong sự mê chấp vào
nguyên tắc đồng nhất (principe d'identité) của sự vật. Sự vật không
đồng nhất trên thời gian (vô thường) cũng như trên không gian (vô ngã).
Chúng ta thử xét lại vấn đề xem sao.
Có một bữa đi ngoài đường, tôi gặp một
người ngoại quốc. Ông ta dừng lại hỏi tôi: "Ông là người Phật giáo
phải không ?." Tôi trả lời "vâng." Ông ta nhìn tôi một lát rồi gật gù
có vẻ hiểu. Rồi chúng tôi chia tay. Nhưng câu chuyện không giản dị như
vậy. Khi ông ta đi rồi tôi mới ngồi suy nghĩ, băn khoăn không hiểu ông
ta gật gù về chuyện gì. Không biết ông ta đã xây dựng những gì trong
trí óc ông ta trước khi gật gù. Thế nào trong trí óc ông ta cũng có
một hình bóng, một khái niệm về đạo Phật tổ hợp nên do một ít điều ông
ta đã thấy, đã nghe và đã tưởng tượng. Cái hình bóng ấy, cái khái niệm
ấy mà ông ta đã cho là đạo Phật chắc chắn không giống cái mà tôi cho
là đạo Phật. Mỗi người trong chúng ta có một nhận thức khác nhau về
đạo Phật, tùy ở kiến thức, khả năng lĩnh ngộ và óc suy luận của ta.
Nói một cách khác hơn, mỗi người trong chúng ta có một đạo Phật, và có
bao nhiêu người thì có bấy nhiêu đạo Phật, trong lúc ấy thì đạo Phật
tự thân (le Bouddhisme en soi) nằm ở đâu, và có dính líu ít nhiều với
những đạo Phật trong nhận thức của chúng ta không, cái đó chúng ta
không hiểu được, bởi vì chúng ta chưa thoát khỏi ý thức suy luận chủ
quan của chúng ta. Chỗ sai lầm là tưởng rằng bao nhiêu nhận thức của
chúng ta về đạo Phật đều phản chiếu đạo Phật tự thân; kỳ thực có những
nhận thức mệnh danh là về đạo Phật mà thực không dính dáng gì đến đạo
Phật hết cả. Nhưng anh có quyền gì và anh dựa vào tiêu chuẩn nào để
nói rằng nhận thức đó không dính dáng gì đến đạo Phật, trong khi anh
nói rằng không thể vượt khỏi ý thức suy luận chủ quan của anh ? Tại
sao anh lại đoan quyết được rằng nhận thức của anh về đạo Phật là gần
với đạo Phật tự thân hơn cả ? Người bạn đọc có thể hỏi như thế. Tôi
công nhận đó là một câu hỏi thật thông minh và xin khất lại ít lâu
trước khi trả lời. Nhưng mà tôi xin nói rằng tôi không bao giờ dám
đoan quyết rằng nhận thức của tôi là gần với đạo Phật tự thân hơn cả.
Tôi chỉ dám nói rằng trong lịch trình kinh nghiệm tâm linh, nhận thức
hiện thời của tôi về đạo Phật, so sánh với những nhận thức của tôi về
đạo Phật trong quá khứ, đã ít ngây thơ và tôi tin là vì ít ngây thơ
hơn nên cũng có thể gần với đạo Phật tự thân hơn.
Thôi để tôi gắng thoát cái vòng luẩn
quẩn. Tôi trở lại câu chuyện ông bạn ngoại quốc hồi nãy. Có thể khi
nghe tôi xác nhận tôi là người đạo Phật, ông ta liền nghĩ rằng: "À ra
cái ông này đang mong ước lên Niết Bàn Hư Vô Tịch Diệt đây, và đang tự
xóa bản ngã của mình để thoát khỏi sáu nẻo luân hồi đây." Thật ra thì
chính nội dung những danh từ và những khái niệm diễn đạt trong ý nghĩ
kia cũng thay đổi theo nhận thức từng người, và cùng về một câu nói đó
mà mỗi người có thể nghĩ khác nhau. Những chữ Niết Bàn, Hư Vô, Tịch
Diệt, Bản Ngã, Luân Hồi không có nghĩa nhất định. Xin bạn đừng cười,
vì sự thực là như thế. Có biết bao nhiêu định nghĩa về Niết Bàn rồi,
và những cố gắng ấy là để làm nên một việc mà chính Phật Thích Ca đã
không làm nổi. Hỏi Niết Bàn là gì, Ngài đã từ chối không trả lời.
Vậy nếu ông bạn ngoại quốc nói to ý nghĩ
đó cho tôi nghe thì tôi sẽ hỏi lại ông muốn nói gì khi ông bảo là tôi
"đang ước mong lên Niết Bàn Hư Vô Tịch Diệt và đang tự xóa bản ngã của
mình để thoát khỏi sáu nẻo luân hồi." Cố nhiên là ông sẽ giải thích
câu nói theo nhận thức của ông về đạo Phật và cố nhiên là tôi khó mà
chấp nhận đó là đạo Phật của tôi. Tôi có thể trả lời: "Tôi là người
đạo Phật, nhưng là đạo Phật trong nhận thức của tôi chứ không phải là
đạo Phật trong nhận thức của ông. Theo tôi, cái mà ông cho là đạo Phật
ấy nó không phải là đạo Phật mà chỉ là những tưởng tượng của ông về
đạo Phật." Ông ta có thể dùng lý luận của tôi để bắt bẻ lại tôi: "Ông
chắc gì cái mà ông tưởng đã là đạo Phật ?." Vậy thì trong hai chúng
tôi không ai hơn ai thua. Chúng tôi có hai đạo Phật khác nhau, mà
đạo Phật tự thân thì chẳng biết theo hùa về phe nào. Vấn đề giải
dị như thế.
Trong số 500 triệu người tự nhận là theo
đạo Phật, người nào cũng nghĩ rằng mình đang theo đạo Phật tự thân.
Và trong số những người có học và nghe nói về đạo Phật,
người nào cũng nghĩ rằng đạo Phật là cái đang phản chiếu trong quan
niệm mình. Thực ra tất cả đều chỉ là những quan niệm về đạo Phật
mà không hẳn là đạo Phật. Trong một tôn giáo có đến hằng
mấy mươi tông phái chất chứa không biết bao nhiêu là hệ thống giáo lý
và triết học trong một tôn giáo mà con người có quyền tự do phê phán,
chọn lựa và sáng tạo giáo lý, vấn đề quy định cái gì là đạo Phật tự
thân lại là một vấn đề càng khó khăn hơn gấp bội. Cho nên ta không
ngạc nhiên khi nghe đạo Phật nói có đến tám vạn bốn ngàn nẻo vào chân
lý (bát vạn tứ thiên pháp môn).
Xin cho phép tôi nói rộng ra thêm một ít
trước khi chúng ta đặt nguyên tắc thứ nhất. Nhà thần học danh tiếng
Paul Tillich trong tác phẩm Systematic Theology có nêu lên ý
niệm về một "vòng tròn thần học" (theological circle). Muốn đạt đến
chân lý thần khải mầu nhiệm, ta phải đứng ở trong vòng tròn chứ không
phải đứng ngoài vòng tròn. Vòng tròn ấy biểu hiện bên trong,
cho những người đã chấp nhận giáo hội và Thánh Kinh như là những
phương tiện duy nhất để tìm đến sự thể nhập chân lý thần khải - nói
khác, cho những người đã can đảm lựa chọn và tin tưởng ở Ky Tô Giáo.
Những người đứng ngoài vòng tròn thì không thể thấy được chân lý thần
khải; nếu những người đó muốn họ phải can đảm nhẩy vào vòng tròn - Nếu
ta xét kỹ ý niệm vòng tròn thần học này theo nhận thức ta đã dùng để
xét những người Phật tử, thì ta sẽ thấy vòng tròn thần học ấy cũng
không thể nào thiết lập được. Có những người mang danh hiệu là tín đồ
Ky Tô Giáo nhưng mà nhìn vào họ ai cũng thấy hình như những người ấy
không đứng trong vòng tròn thần học. Họ là những tín đồ hữu
danh vô thực. Trong đạo nào cũng có hiện tượng ấy. Nhưng nếu họ cứ tự
nhận họ là người đứng ở trong ai mà cấm được ? Uy quyền của Giáo Hội,
uy quyền của Thánh Kinh ai cũng biết là không đủ để quy định thế nào
là ở trong và thế nào là ở ngoài. Nhìn vào sự thật tự khắc chúng ta
biết. Có hàng ngàn hàng vạn nhận thức về chân lý Thánh Kinh, ta dùng
nhận thức nào đây để quy định vấn đề trong, ngoài và vẽ ra cái vòng
tròn khó khăn đó ?
Theo ý chúng tôi thì không có một tín
hữu nào dám cả quyết rằng mình đang đích thực đứng trong vòng tròn cả
- nếu ta nói đến những người biết cẩn trọng và khiêm nhượng trong bước
học hỏi và tu luyện của mình. Tin một cách tuyệt đối rằng mình đang ở
trong và kẻ kia đang ở ngoài là dấu hiện của sự quá chất phác giản dị
nếu không phải là ảo tưởng. Theo chúng tôi, đức tin không phải là một
sự đạt đạo tới bình an vô lượng mà là một thao thức thường xuyên hướng
đến sự đi tới, đi tới bằng cách can đảm từ bỏ cái mình nhận ra là sai
và chấp nhận cái mình mới khám phá ra được bằng học tập và bằng kinh
nghiệm tâm linh trong sinh hoạt tôn giáo. Tin không phải là để được
yên ngủ mà là để chấp nhận đi tới - mà đi tới là một quá trình tự hủy
và tự tạo thường xuyên - một công trình đòi hỏi can đảm, thao thức và
khổ đau nữa.
Cái nhà thần học Tây phương hiện nay
thường nói đến đức tin như một ân huệ, một tặng phẩm của Thượng Đế cho
con người, mà không phải chỉ là sự lựa chọn và chấp nhận của con người
đối với Giáo Hội và đối với Thánh Kinh. Trong trường hợp ấy, làm sao
ta có thể quyết đoán được rằng ai đã tin, và ai chưa tin ? Ai đã được
tặng phẩm đó của Thượng Đế và ai chưa ? Và chính bản thân của mình nữa:
mình cho rằng mình đang tin, đang đứng ở trong vòng tròn, liệu mình đã
được đích thực tiếp nhận ân huệ ấy hay tất cả những gì mình đang có
cũng chỉ là sáng tạo phẩm của một nhận thức chủ quan ?
Mà nếu có những kẻ hữu danh vô thực, thì
sao lại không có thể có những kẻ hữu thực vô danh ? Một người kia
không biết đến Giáo Hội, không đọc đến Thánh Kinh, nhưng nếu sinh hoạt
tâm linh phù hợp với chân ý Chúa Ky Tô thì ai dám bảo rằng người ấy ở
ngoài vòng tròn và không thể tiếp nhận chân lý tối hậu ?
Cho nên những ý niệm ở trong, ở ngoài,
bên này, bên kia, đạo Phật, đạo Chúa… đều là những ngục tù giam hãm
ngăn cách con người. Nếu muốn có một cuộc đối thoại chân thực, ta phải
vùng vẫy để đập bỏ phá vỡ những cái vỏ cứng ấy của tâm niệm, của thành
kiến. Khi người bạn tôi nói: "anh đã bị buộc vào đạo Phật rồi, anh
không còn tự do nữa" là bạn tôi muốn nói đến những vỏ cứng đó. "Vậy
nếu muốn được tự do, ta không nên theo một cái gì hết phải
không ?." Một người bạn khác hỏi. Tôi thấy điều đó không thể thực hiện
được. Anh không thể sống, nếu anh không theo một cái gì. Trong trường
hợp một người không theo đạo Chúa, không theo đạo Phật, cũng nhất định
không theo đạo nào hết, người ấy đã phải là tự do đâu. Người ấy cũng
có một cái vỏ cứng thật to lớn và vững chãi, có lẽ còn to hơn cái vỏ
của bạn và tôi nữa. Cái vỏ ấy che lấp không cho người ấy thấy gì, và
vì vậy người ấy cũng là nô lệ muôn đời cho nhận thức của chính mình.
Tốt hơn là phải chấp nhận, với tất cả trí tuệ và tâm linh mình, một
đường lối, và hãy đi trên đường lối ấy với tâm trạng thao thức, cẩn
trọng, khiêm nhượng, sẵn sàng trao đổi, sẵn sàng thay đổi,
sẵn sàng chấp nhận khổ đau để thực hiện. Với thái độ đó, không
có cái vỏ nào giam hãm chúng ta được, không có xiềng xích nào níu kéo
chúng ta được, không có mãnh lực nào khiến ta trở nên cuồng tín phủ
nhận tất cả "những gì không phải là ta" được. Và đứng ở đâu, ta cũng
nhìn thấy nhau.
Vậy nguyên tắc thứ nhất, theo thiển ý,
là nhớ mãi rằng dù cho có đức tin, dù có đức tin rồi, dù không có đức
tin, tất cả chúng ta đều là người đang đi tìm sự thực và sự thực thì
không biết đến những vỏ cứng và những vòng tròn.
Nguyên tắc thứ hai, theo ý chúng tôi, là
không biện luận trên căn bản tỷ giảo để so sánh đối chiếu và ước lượng
giá trị siêu hình, triết học và đạo đức giữa tôn giáo này với tôn giáo
kia mà chỉ trình bày sở kiến của mình về lãnh vực chuyên môn của mình
để cùng nhận xét và thảo luận.
Như thế câu hỏi cấp thiết của chúng ta
đặt ra không phải là xét xem đạo nào là chân lý, và đạo nào không là
chân lý, đạo nào hợp với quần chúng và đạo nào không hợp với quần
chúng, đạo nào nên theo và đạo nào không nên theo - câu hỏi cấp thiết
của chúng ta là tìm xem :
- - Đạo mà anh đang
theo có những đặc điểm nào ?
- - Có thể giúp được
gì ?
- - Giúp thế nào ?
- - Vì sao và căn cứ
vào đâu mà anh nói được như vậy ?
Như thế chúng ta sẽ tránh khỏi những
cuộc thảo luận không bao giờ chấm dứt, những cuộc thảo luận chỉ làm
tốn thì giờ tốn sức lực mà không đem lại kết quả thiết thực nào cho sự
sống, nếu không phải là do sự hiểu biết chân thực.
Nguyên tắc thứ ba mà cũng là nguyên tắc
chót, theo ý chúng tôi, là ta phải cùng đứng trên một miếng đất để có
thể cúng đồng thời trông thấy được những điều mà bạn cố chỉ cho tôi ấy.
Như thế có nghĩa là bạn cố chỉ ra những đề tài siêu hình chẳng bao giờ
có thể kiểm soát được trên hý luận vô ích chỉ gây thêm thành kiến và
đau khổ.
Về nguyên tắc thứ ba này, ta có thể đi
sâu hơn để nhận định giới hạn những địa hạt mà ta có thể khám phá
chung với nhau. Nghiên cứu một tôn giáo ta có thể tìm đến tôn giáo ấy
bằng chiều ngưỡng cửa: ngưỡng của thần lý học, ngưỡng của sử học,
người của kinh tế học, ngưỡng cửa nhân chủng học, ngưỡng cửa xã hội
học… Từ mỗi lối vào ta có thể khám phá thêm rõ khi ta đi vào bằng
những lối kia. Nhưng mà ta đừng bị quáng mất bởi một khám phá nhỏ để
rồi đi đến sự phủ nhận những khám phá khá của sự phủ nhận những khám
phá khác của những người không cùng đi vào một cưỡng ngựa của với ta.
Ta đừng cố cắt nghĩa tất cả các hiện tượng tôn giáo bằng điều
ta mới khám phá được, nếu không ta sẽ phạm vào lỗi lầm muôn đời của
ông thầy bói bảo rằng con voi cũng giống cái chổi lông. Đứng về phía
giải thích hiện tượng tôn giáo chẳng hạn, một Max Luller có thể khám
phá ra rằng tôn giáo bắt nguồn ở khuynh hướng nhân cách hóa những sự
vật tự nhiên để được biểu hiện ở thần thoại và thờ cúng. Một Spencer
có thể cho rằng tôn giáo bắt nguồn từ sự sợ hãi mà quỷ rồi đi đến sự
thờ cúng tổ tiên và tiếp đó là sự thờ cúng những thần linh được chọn
trong số vong hồn những tổ tiên nào hiển hách nhất. Một Van Gennep hay
một Crawley có thể cho rằng tôn giáo phát nguyên từ những khủng hoảng
tâm lý trong đời người tạo ra do những hiện tượng sinh đẻ, dậy thì,
hôn phối, chết. Những khủng hoảng đó đưa tới sự thờ cúng và lễ bái.
Một Freud có thể nói rằng tôn giáo là hình ảnh của một ảo tưởng, kết
cấu đại đồng của một trạng thái thần kinh nhắm mục đích thỏa mãn
và che dấu ước vọng chân thực của con người đang sống. Chúng ta
không có thì giờ để mà thảo luận cân nhắc tất cả những khám phá ấy.
Chúng ta không có được cái xa hoa ngồi thảo luận hàng tháng hàng năm
như thế. Chúng ta phải nhìn thẳng vào xã hội loài người, khắt khe hơn
nữa, xã hội Việt Nam chúng ta trong hiện tại, để thảo luận. Ta sẽ nhìn
nhận thực trạng xã hội, phải nhìn nhận sự có mặt của các ý thức hệ và
của các tôn giáo có mặt tại xã hội ta, phải hỏi rằng trong hiện tình
quả thực tôn giáo của ta có thể đóng góp gì ? Đóng góp cách nào, và có
thực tế không, hay chỉ là ước vọng là ảo tưởng ? Ta sẽ nhìn nhận địa
vị tôn giáo ta bên cạnh sự hiện diện của các tôn giáo khác như thế nào
trong xã hội ta. Ta sẽ phụng sự, không phải cho một tổ chức tôn giáo,
mà cho một lý tưởng tôn giáo. Nói khác ta phụng sự con người,
phụng sự xã hội; trong quá trình hành động, tổ chức tôn giáo không
phải cứu cánh mà là phương tiện. Nói như thế không phải là chủ trương
rằng hãy biến các đoàn thể tôn giáo thành những lực lượng xã hội và
chính trị: nói như thế chỉ là nhấn mạnh đến sự thực hiện lý tưởng
tôn giáo mà phản kháng ý thức quy hướng mọi hoạt động về sự
xây dựng cho tổ chức tôn giáo, để cho "tôn giáo" mình thêm mạnh,
thêm quyền thế để "tôn giáo" mình chiếm địa vị độc tôn. Nếu một tôn
giáo nào quên lãng sự thực hiện lý tưởng tôn giáo mà chỉ nhắm đến sự
bành trướng thế lực và tổ chức thì tôn giáo ấy không được gọi là tôn
giáo nữa. Ta phải thành khẩn và thận trọng nhận thức sự khác biệt giữa
hình thức và nội dung một tôn giáo. Có khi đạt được hình thức
lớn mạnh mà nội dung đã tan biến và tiêu diệt, vì lẽ những phương tiện
để đạt đến hình thức lớn mạnh ấy đã đi ngược lại tinh thần của tôn
giáo ấy.
Cho nên một cuộc đối thoại giữa người
Phật tử với người Phật tử, giữa người Phật tử với người "không" Phật
tử, phải là một cuộc đối thoại giữa những người có thiện chí - chỉ
nhắm đến con người. Trước hết nếu ta để thì giờ bàn về Niết Bàn, bàn
về Thiên Đường, bàn về sự sống bên kia cái chết, chúng ta sẽ
còn bị ngăn cách nhau mãi mãi bằng những giả thuyết siêu hình không
thể kiểm soát, những sai biệt đã gây quá nhiều thương tích cho lịch sử.
Ta có thể nghe Đức Không Tử "vị năng sự sinh, yên năng sự tử" hay nghe
Phật Thích Ca: "Đừng có hỏi rằng thế giới này hữu hạn hay vô hạn, hữu
cùng hay vô cùng. Dù nó hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng thì
điều mà chúng ta phải công nhận trước tiên là đau khổ của cuộc đời là
một hiện thực."
Vì vậy, ta bắt đầu từ sự khổ đau, từ
con người mà không phải từ thế giới siêu hình.